Hình ảnh minh họa. Tiểu đường là một bệnh lý hay gặp, chiếm 60 – 70% danh thiếp bệnh nội tiết. Trên thế giới, bệnh đã có từ lâu, nhưng đặc iệt phát triển trong những năm gần đây và tăng nhanh theo tốc độ phát triển của nền kinh tế - xã hội. Mức độ nguy hiểm của bệnh đái đường tăng lên nhiều lần khi người mắc bệnh là đàn bà mang thai. Tiểu đường khi mang thai phần đông phát đâm ra ở nữa đầu của thai kỳ, cốt tử can hệ đến việc thai nhi hấp thụ đường glucoza và acid amin. Ngoài ra, rau thai còn có tác dụng kháng insulin, khiến cho insulin tiết ra không đầy đủ. Bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người mẹ và quá trình thai nghén như dễ gây sảy thai, tăng huyết áp, thai nhi bị dị tật thưa sinh.
Bệnh xuất hiện bởi sự rối loạn chuyển hóa đường khi thai nghén, dẫn đến tình trạng tăng đường huyết bệnh lý. Trong số các trường học hợp được chẩn đoán trong thai kỳ, có trên dưới 10% đã bị bệnh từ trước khi mang thai và đây là nhóm bệnh nhân dịp có nguy cơ rất cao. Phụ nữ có mang mắc bệnh tiểu đường không phải là ít, có trên dưới 0,1 – 0,5 % thai phụ mắc căn bệnh này, cộng thêm khoảng 2,5% mới mắc khi mang thai.Bênh đái đường có trạng thái phát hiện sớm và chắt lọc và tuần thứ 28 – 32 của thai kỳ. Bệnh này hiện nay đã có phác hoạ đồ điều trị tốt: Tiết chế thức ăn hoặc điều trị văn bằng thuốc insulin. Nếu không tầm soát, thai nhi có thể tắt nghỉ lưu hoặc thai to dẫn đến khó sinh, gây sang chấn (kẹt vai khi sinh, trở dạ kéo dài), thuốc giảm cân mẹ phải đâm ra mổ… Những người bị bệnh đái đường sau khi đâm ra cần được theo dõi đường huyết từ 3 – 6 tháng. Cơ trạng thái của người phụ nữ đổi thay nhiều trong thời kỳ mang thai. Thai phụ có trạng thái mắc bệnh tiểu đường. man di đàn bà mang thai thành ra thẩm tra để phát hiện tiểu đường trong tháng mang thai thứ sáu (tuần thứ 24 – 28). Chỉ có trên dưới 2 – 5 % thai phụ bị đái đường thời kỳ thai nghén. Tiểu đường thai nghén hay xảy ra nhiều hơn ở thai phụ béo phì mê hoặc cứng tuổi. Có khoảng 35 – 50% bệnh nhân dịp đái tháo đường thời kỳ thai nghén về sau sẽ mắc tiểu đường tuýp 2. Duy trì chế độ ăn phù hợp, tập thế dục và giảm trọng lượng thân thể có trạng thái giảm nguy cơ mắc bệnh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét